Mùa Thu năm 1947, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị lực lượng tấn công lên chiến khu Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, chúng huy động tới 2 vạn quân tinh nhuệ, 800 xe cơ giới, 40 máy bay, 40 ca nô tàu chiến cùng nhiều vũ khí đạn dược chia thành hai gọng kìm ồ ạt tiến quân lên Việt Bắc: Gọng kìm thứ nhất gồm 1 binh đoàn lính dù, 1 binh đoàn cơ giới theo đường bộ đánh chiếm tỉnh Bắc Cạn. Gọng kìm thứ 2 gồm một binh đoàn lính bộ, một số đại đội lính thuỷ, công binh, pháo binh cùng 40 ca nô tàu chiến do quan năm Com-muy-nan chỉ huy ngược dòng sông Lô tiến quân lên Tuyên Quang.
Trước tình hình đó, ngày 4/10/1947, Khu ủy khu 10 họp khẩn cấp tại Phan Lương (Lập Thạch) quyết định những biện pháp chiến thuật chặn đánh địch, 2 trung đoàn bộ binh của khu 10 được điều về bố trí rải rác khắp ven sông từ Lập Thạch đến Chiêm Hóa, 3 trung đội pháo binh được bố trí cơ động ở 3 khu vực Phan Lương, Đoan Hùng, Bình Ca đồng thời huy động toàn bộ lực lượng dân quân du kích và nhân dân các xã ven sông phối hợp với bộ đội chủ lực sẵn sàng chiến đấu.
Sáng ngày 11/10/1947, quân địch bắt đầu tổ chức hành quân theo đường sông Lô từ Việt Trì tiến thẳng lên Tuyên Quang, chúng chia quân ra thành từng đoàn, mỗi đoàn gồm 4 tàu chiến, 3 ca nô có máy bay yểm trợ chở binh lính, vũ khí đạn dược lần lượt hành quân lên Chiêm Hóa. Thấy đoàn đi đầu chót lọt, ngày 23/10, tướng Com-muy-nan điều tiếp 2 tàu chiến trọng tải lớn chở quân sỹ cùng hàng hóa tiếp tục tiến lên Tuyên Quang để chuẩn bị cho cuộc càn quét vào chiến khu Việt Bắc. Khi tiến quân lên đến Khoan Bộ (Lập Thạch), đoàn tàu của địch lọt vào trận địa pháo 75 ly của ta đã bố trí sẵn, pháo ta đồng loạt gầm lên, lính địch cùng hàng hóa, vũ khí trên tàu trúng đạn văng tứ tung, chúng hoảng sợ quay mũi tàu ghé vào làng An Đạo neo đậu và lệnh cho đoàn tàu chiến từ Tuyên Quang quay xuôi để cứu viện.
Nắm bắt được tình hình của địch, Bộ tư lênh khu 10 đóng tại Đoan Hùng tức khắc lệnh khẩn cấp cho các đơn vị chuẩn bị phương án để chặn đánh địch: giao cho đồng chí tham mưu trưởng Vũ Hiển làm chỉ huy trưởng trận đánh, phó ban pháo binh Doãn Tuế làm đốc chiến, trung đội trưởng Lê Hộ cùng với khẩu đội trưởng Vũ Trọng Dần và trung đội phó Trần Thái Quang chỉ huy trung đội pháo 75 ly bố trí tại làng Ngọc Trúc (Chí Đám) chờ đánh địch; điều Trung đội pháo 75 ly do trung đội trưởng Lê Văn Canh chỉ huy đặt tại gò Đồn xã Thọ Sơn để yểm trợ và bố trí một khẩu đội badôca phục sẵn ở làng Sài Lĩnh sẵn sàng tiếp viện. Giao Tiểu đoàn trưởng Vũ Lập chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh mai phục hai bên bờ sông; Lực lượng dân quân du kích của hai xã Chí Đám và Hữu Đô được giao nhiệm vụ làm trận địa giả nghi binh, dùng bưởi quả bôi dầu luyn và nhọ nồi sâu vào dây thép thả trôi lập lờ trên mặt nước giả làm thủy lôi; hun rơm rạ, đốt ống nứa và gõ chiêng trống để trợ oai khi giặc đến, còn dân quân du kích các xã Đại Nghĩa, Phú Thứ, Thọ Sơn, Sóc Đăng làm nhiệm vụ tuần tra canh gác và phục vụ chiến đấu… Công tác chuẩn bị cho trận đánh đã hoàn tất trước khi trời sáng.
11 giờ trưa ngày 24/10/1947, 5 tàu chiến địch cùng 6 máy bay yểm trợ hùng hổ nối đuôi nhau rẽ nước xuôi dòng. Nhận được lệnh chiến đấu, dân quân làng Hữu Đô đốt rơm dạ, khua chiêng trống làm mù mịt náo động cả một khúc sông. Thấy có thủy lôi lập lờ trên mặt nước phía bờ làng Hữu Đô, địch cho tàu chạy chậm lại và né sang phía bờ làng Ngọc Trúc. Đợi tàu giặc đến đúng tầm ngắm, chỉ còn cách khoảng 300 mét, pháo ta với chiến thuật “Đặt gần bắn thẳng” đã đồng loạt gầm lên, chiếc tàu chiến đi đầu bị trúng 4 quả đạn, nước ồ ạt tràn vào trong khoang, nó tròng trành mấy cái rồi từ từ chìm nghỉm, đến lượt chiếc tàu thứ 2 trúng đạn, buồng chứa xăng nổ tung, lửa cháy rực trời, khói đen mù mịt, binh lính Pháp trên tàu nhảy ào xuống sông bơi vào bờ phía làng Hữu Đô bị dân quân truy đuổi bắt sống, 3 chiếc tàu còn lại thì 2 chiếc bị trúng đạn chết máy trôi bồng bềnh trên sông, một chiếc quay đầu chạy ngược lên phía Tuyên Quang. Cũng lúc này, khẩu 75 ly đặt ở gò Đồn dương nòng nhằm bắn vào những chiếc máy bay đang quần đảo trên bầu trời làm chúng hoảng sợ tháo chạy về xuôi. Sau 6 giờ chiến đấu ác liệt, quân ta thắng lớn, quân Pháp bị tiêu diệt và bị bắt sống khoảng 350 tên, 2 tàu chiến bị bắn chìm, 2 chiếc khác bị hư hỏng, ta thu được 1 khẩu pháo 75 ly, 10 súng cối 81 ly, 4 khẩu trọng liên, hàng chục trung liên, 200 súng tiểu liên, hàng tấn đạn dược các loại và nhiều chiến lợi phẩm quân trang quân dụng. Gần một tháng sau, ngày 22/11/1947, tàn quân địch còn lại từ Tuyên Quang theo đường sông Lô rút chạy về Việt Trì khi qua đoạn sông làng Lã Hoàng (xã Chí Đám) lại bị trúng thủy lôi của ta gài sẵn, chiếc tàu chở sĩ quan của địch cùng hơn 100 tên lính trên tàu đã bị chết chìm.
Chiến thắng Sông Lô được đánh giá là một mốc son lịch sử quan trọng, bằng ý chí, sự đoàn kết và nghệ thuật chiến tranh du kích, quân và dân ta đã đập tan chiến dịch tiến quân 2 gọng kìm lên Việt Bắc của địch, bắt chúng phải chuyển từ thế tiến công về co cụm tại các đồn bốt vùng xuôi, chuyển cục diện chiến tranh sang một giai đoạn mới, quân ta chủ động tiêu hao sinh lực địch, tích cực chuẩn bị cho tổng phản công sau này.
Để ghi nhớ chiến công oanh liệt của quân và dân ta đồng thời để giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau, năm 1987, Tượng đài chiến thắng Sông Lô sừng sững uy nghi đã được xây dựng trên đỉnh gò Đồn nơi ngã ba sông Lô gặp sông Chảy, phần tháp cao 26 m tượng trưng cho ngọn lửa bất diệt ngời sáng có 4 bức phù điêu khắc họa về tinh thần chiến thắng và bản sắc văn hóa người dân Đoan Hùng, phần tượng cao 7 mét gồm 5 chiến sỹ dân quân và bộ đội chủ lực đang reo hò chiến thắng bên khẩu pháo, hai bên nhóm tượng là hình con tàu đắm đang bị nhấn chìm trên sóng. Nơi đây đã trở thành Di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia hàng năm đã đón hàng ngàn lượt du khách đến tham quan chiêm ngưỡng.