Làng Hữu quê tôi nằm trải dài bên bờ dòng Lô xanh mát, vì cách trở sông nước nên quê tôi còn nghèo lắm, vẫn còn nhà tranh, vẫn còn người thiếu ăn mỗi mùa giáp hạt, vẫn có người phải đi làm ăn xa để kiếm thêm đồng tiền bát gạo... nhưng cứ Tết đến xuân về thì cái Tết không bao giờ nghèo.
Những năm gần đây, cứ đến dịp giáp Tết là nhà nào cũng chuẩn bị cho mình một con lợn để mổ, lợn mổ ăn Tết không cần to lắm, hai ba chục cân là được, có nhà đã nuôi lợn ăn Tết từ giữa năm, chỉ cho ăn nguyên rau cám hoặc thả lõa ngoài vườn, không cho ăn bất kỳ một thứ tăng trọng nào, lợn lớn nhanh hay chậm, gầy hay béo không quan trọng. Bắt đầu từ ngày ông Táo lên chầu Giời trở đi là các gia đình mổ lợn, mà mổ lợn thì nhất thiết phải mời bằng được anh em, hàng xóm đến dự, có xóm các gia đình bảo nhau chia lịch để mổ, nay nhà này, mai nhà khác, có khi hai nhà cách nhau chỉ một bờ rào, nhưng sáng nhà này mổ để mời nhà kia, chiều nhà kia mổ để mời lại, lời mời ngày Tết thì ít ai từ chối, hàng xóm đến với nhau không phải vì món này, món nọ mà là vì cái tình, cái nghĩa, các cụ dạy “Tối lửa tắt đèn có nhau” mà, uống với nhau chén trà, li rượu, tâm tình hoan hỷ mừng cho nhau một năm làm ăn thành đạt, an ủi nhau những điều không may mắn, bỏ quá cho nhau những điều không phải đạo, động viên nhau “Năm mới thắng lợi mới” .
Cũng trong những ngày giáp Tết, các gia đình đều đi tảo mộ, tảo mộ để sửa sang, làm mới phần mộ của người đã khuất và để cho con cháu nhớ về tổ tiên, bày tỏ lòng thành kính thiêng liêng với tổ tiên. Anh em con cháu mang hương hoa đến phần mộ của dòng họ, thắp nén hương, đốt tàu vàng mời tổ tiên về gia đình chung vui ngày tết với con cháu. Những ngôi mộ vô danh cũng được thắp hương thể hiện tình người, ấm áp cõi âm. Kể cũng lạ, dẫu vẫn biết âm dương ngàn trùng cách biệt nhưng những ngày giáp Tết, không ai bảo ai, dù ở xa mấy cũng cứ về quê, cha về, con về, dâu về, rể về và cả cháu chắt cũng về theo thắp nén hương thơm cho các cụ, có lẽ vì đó là nguồn cội, là tổ tiên ông bà, là người thân hoặc bà con làng xóm, là đạo lý “Chim có tổ, người có tông” từ ngàn đời lưu truyền. Người quê tôi là thế.
Rồi cũng những ngày giáp Tết, các gia đình đều làm bánh: bánh chưng, bánh nẳng, bánh rợm, bánh gai, chè lam, kẹo vừng... là những thứ không thể thiếu được. Riêng bánh chưng thì dù nghèo mấy cũng phải có, nhà ít thì gói răm cân gạo, nhà nhiều gói hàng yến, lá dong được rửa sạch, gói bên trong là gạo nếp, nhân đỗ xanh và thịt ba chỉ rồi cho vào nồi đồng đun liền một ngày để bánh rền, khi chín vớt bánh ra, rửa lại bằng nước lạnh cho khỏi dính rồi chọn một vài cái vuông vắn đặt lên bàn thờ thắp hương Tổ tiên, số còn lại treo trong bếp để ăn và tiếp khách trong suốt những ngày Tết. Bánh nhà nào ngoài viền xanh, trong màu hồng, ăn vừa ngậy vừa thơm được coi là năm mới gặp nhiều may mắn, làm ăn hưng thịnh. Gói bánh chưng đã trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống trong mỗi gia đình quê tôi khi Tết đến Xuân về. Háo hức nhất là lũ trẻ con, chúng cứ quây lấy người lớn đang gói bánh nhận cái này cái nọ là của mình, lấy lạt dang buộc lại để đánh dấu rồi xúm xít quanh nồi bánh chờ đợi... Cùng với bánh chưng, cành đào cũng là thứ không thể thiếu được trên bàn thờ mỗi gia đình. Quê tôi ít người mua cây đào cảnh ngoài chợ mà thường đến xin cành đào ở những cây đào cổ trong làng, cành đào được đốt gốc, cắm vào lọ độc bình đặt lên bàn thờ tổ tiên. Hoa đào phai, đào thắm hòa quyện cùng câu đối đỏ, tranh Lưỡng ngư vọng nguyệt, bộ Tứ quý tôn thêm vẻ linh thiêng, trang trọng của nơi giao hòa âm dương.
Chiều 30 Tết, một mâm cỗ thịnh soạn để thắp hương tổ tiên, rồi từng gia đình quây quần bên nhau vui Tết, chúc tụng nhau những điều tốt lành và đợi thời khắc giao thừa...
Tết quê tôi là thế, Tết đến một cách trầm lắng, chậm rãi nhưng thật ấm cúng chan chứa tình người, hỏi rằng có ai mà không háo hức mong chờ. Năm cũ qua đi, năm mới bước tới, bao niềm tin, ước mơ, khát vọng lại được chắp cánh, trải rộng giữa không gian của mùa xuân, của đất trời và của lòng người.
Vũ Quý Đông