ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
55 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
---------------
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI, GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA DI CHÚC
1. Hoàn cảnh ra đời
- Năm 1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965
Bác viết bản Di chúc với tiêu đề "Tuyệt đối bí mật" gồm ba trang, do chính Bác đánh
máy, ở cuối đề ngày 15/5/1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của Bác
và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
- Các năm 1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng.
- Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay. Trong
đó, Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói "về việc riêng" đã viết trong bản năm 1965,
và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về những công việc cần làm sau khi
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như
chỉnh đốn lại Đảng, quan tâm gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, chăm sóc đời sống
của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông
nghiệp, xây dựng lại thành phố và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn
hoá, củng cố quốc phòng, chuẩn bị thống nhất đất nước.
- Ngày 10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một trang
viết tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày 19/5/1969, Bác còn tiếp tục sửa chữa
bản Di chúc của các năm 1965, 1968, 1969. Đúng 10 giờ ngày 19/5/1969, là kỷ niệm
ngày sinh lần thứ 79 của Bác, Bác đọc lại lần cuối cùng tất cả các bản Di chúc đã
viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ vào phong bì và cất đi…
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang
của Người tháng 9/1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x 22 cm. Ngày 19/8/1989,
Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW về một số vấn đề liên quan đến Di chúc
và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di chúc công bố chính thức
năm 1969 bảo đảm trung thành với bản gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa theo
bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn về
việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên một số
vấn đề trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được công bố, như: Việc căn
dặn của Người về hoả táng thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông
nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản
viết Di chúc của Người.
2. Giá trị của Di chúc
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, Nhân dân và sự nghiệp cách mạng
Di chúc là Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc,
phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không
có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều
hơn nữa”. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Nhân dân
của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ
và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng
còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng
tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và Nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với
“các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”.
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm
quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với Nhân dân, không ngừng nâng cao
bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Di chúc nêu những vấn đề cốt yếu của
công tác xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách
mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ Nhân dân của mỗi cán bộ,
đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường
xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.
- Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và
chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, có như vậy mới
thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”,
đó là công việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức
rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã
hội chủ nghĩa.
- Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững mạnh
của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng
cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế
giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên
tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản, có lý có tình”.
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác
thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công
bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá
trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động
lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân
là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn
dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý
xã hội, như đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, sửa
đổi chế độ giáo dục cho phù hợp hoàn cảnh mới, khôi phục và mở rộng các ngành
kinh tế, phát triển công tác vệ sinh, y tế, chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông
dân, chính sách xã hội, công bằng xã hội...
- Giá trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền
văn hoá Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá
trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và
văn hoá trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân,
vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục Nhân dân. Qua lời dặn dò về
việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn
hoá mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên, môi trường sinh thái.
- Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là
một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, "là một công việc cực
kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư
hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống
của Nhân dân.
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện
nước ta phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, “động viên toàn
dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”1.
3. Ý nghĩa của Di chúc
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh những
tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, cốt yếu của tư tưởng
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị Quốc gia, 2011, t.15, tr.617.
Hồ Chí Minh, vạch ra phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam hôm nay
và tương lai.
Các bài học qua 55 năm thực hiện Di chúc vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục
phát huy trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là, bài học về tinh thần lạc quan và bản
lĩnh khoa học cách mạng của Đảng; bài học về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình; bài học về sự quan tâm đặc biệt sâu sắc tới thế hệ trẻ, những chủ nhân
tương lai của đất nước; bài học về chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống của
Nhân dân; bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách mạng.
II. THÀNH TỰU 55 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC
1. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là thắng lợi
của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; chấm dứt ách
thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta;
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, mở ra thời kỳ mới
- thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Thực hiện Di chúc, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo Nhân dân ta tiến
hành công cuộc cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chọn. Mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, vừa
phải thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch,
phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá
nặng nề trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Nhân dân ta đã phấn đấu gian khổ và thu được những kết quả hết sức quan trọng,
khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; tiến hành thắng lợi cuộc chiến đấu bảo vệ
biên giới phía Bắc và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bước
đầu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đem lại phồn vinh cho đất nước,
hạnh phúc cho Nhân dân
55 năm thực hiện Di chúc của Người và sau gần 40 năm tiến hành công cuộc
đổi mới, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta
vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng
liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung
bình gần 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt
khoảng 430 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ
35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên
mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập
thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030
(khoảng 7.500 USD). Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam
không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp và dịch vụ
phát triển khá nhanh, liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 88% GDP. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2023 đạt gần 700 tỉ USD, trong đó kim ngạch
xuất khẩu đạt trên 355 tỉ USD, xuất siêu đạt mức kỷ lục 28 tỉ USD; Việt Nam đã trở
thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100
tỉ USD vào năm 2023. Đầu tư nước ngoài liên tục phát triển, vốn đăng ký tăng 32%,
vốn thực hiện tăng 3%, đạt 23 tỉ USD trong năm 2023, cao nhất từ trước đến nay; và
Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu ASEAN về thu hút FDI.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức
quốc tế đánh giá đứng thứ 46/132 nước được xếp hạng.
Việt Nam có gần 80% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc
độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam
là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên
kỷ. Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc
nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển
cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137
quốc gia được xếp hạng.
Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm
2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2014; số sinh viên đại học, cao đẳng
tăng gần 20 lần trong gần 40 năm qua; có gần 99% số người lớn biết đọc, biết viết.
Diện bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện đến nay đã đạt mức 93,35% (năm 1993
mới chỉ là 5,4%); y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có
hoàn cảnh khó khăn được tăng cường. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã
được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được
cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ
sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên
73,7 tuổi năm 2023.
Tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2024 tiếp tục chuyển biến tích
cực, đạt nhiều kết quả tốt hơn cùng kỳ năm 2023 trên các lĩnh vực. FDI thực hiện
đạt 6,28 tỷ USD, tăng 7,4%, cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Du lịch tiếp tục phục
hồi nhanh với gần 6,2 triệu lượt khách quốc tế, tăng 1,6 lần so với cùng kỳ năm 2023
và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2019. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam
tăng 8 bậc, xếp thứ 107/193. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ
54/143. Các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, toàn
diện, là điểm sáng ấn tượng.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một
quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
3. Xây dựng Đảng thực sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tăng cường
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và trong
toàn xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và đang trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong
đời sống của đất nước. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được được đẩy
mạnh, được tổng kết qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. Dưới sự chỉ đạo của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư,
chỉ tính riêng 10 năm gần đây, ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, các Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương đều bàn và ban hành những nghị quyết, kết luận, quy
định hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lần sau sâu sắc, toàn
diện và cụ thể, rõ ràng hơn so với lần trước2. Công tác phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, bài bản, đi vào chiều
sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, đạt nhiều kết quả rõ rệt, đột phá, được Nhân dân
đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên
và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận
đã đem lại hiệu quả thiết thực, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong Đảng và xã hội. Đặc
biệt, Chỉ thị số 05- CT/TW và Kết luận 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" đã góp phần đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ
2 Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khóa VIII “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”;
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành
Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" gắn với
Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới”; Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh", và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW
của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; các quy
định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, Quy định về nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là Quy định 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước
hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 144-QĐ/TW ngày
09/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới…có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và
động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp
phần tạo ra những đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ
đất nước. Từ trong phong trào học tập và làm theo Bác, đã xuất hiện nhiều tấm gương
tập thể, cá nhân tiên tiến, điển hình, thực sự có sức lan tỏa trong xã hội, khơi dậy
tình cảm, động lực, tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và mong muốn cống hiến,
phụng sự đất nước trong mọi tầng lớp xã hội, cổ vũ toàn thể Nhân dân ta kiên định,
hăng hái, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Thông qua quá trình tự đổi mới và chỉnh đốn, Đảng được củng cố, bảo vệ và
phát triển, đáp ứng yêu cầu và tình hình nhiệm vụ cách mạng đặt ra, khẳng định được
vị thế là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội, có vai trò quan trọng đối với những
thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới.
4. Chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng luôn quan tâm chăm lo,
đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ, coi đây là lực lượng kế tục trung thành sự nghiệp
cách mạng. Các cấp ủy đảng đã lãnh đạo hệ thống chính trị, toàn xã hội thực hiện
tốt hơn công tác thanh niên và chăm lo xây dựng Đoàn. Đảng đã ban hành Nghị
quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Nhà nước đã
ban hành Luật Thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên và nhiều chính sách về
công tác thanh niên, tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên rèn luyện cống hiến trưởng
thành. Công tác đoàn và phong trào thanh niên từng bước phát triển, mặt trận đoàn
kết, tập hợp thanh niên được mở rộng, số thanh niên trở thành đoàn viên, đảng viên
ngày càng tăng. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, gia đình, nhà trường và
xã hội đối với thanh niên, công tác thanh niên đã có chuyển biến tích cực.
Công cuộc đổi mới đất nước đã xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới
có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo;
nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; không
ngại khó khăn, gian khổ, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã
hội; có ý chí vươn lên trong học tập, lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính
đáng, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin
tưởng, được cống hiến cho đất nước; luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
tiền đồ phát triển của đất nước.
5. Xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế
Thực thi đường lối đối ngoại đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay,
nước ta đã mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 193 nước, trong đó có
3 nước quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến
lược và 12 nước đối tác toàn diện. Đặc biệt, nước ta hiện đã thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, và mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230
quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác
tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất và chủ động, tích cực
tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên hợp quốc và nhiều
tổ chức quốc tế khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng, lý luận, chính sách “ngoại giao cây tre” đã tạo những bước ngoặt có tính
lịch sử, thay đổi về chất trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác lớn, tạo nên vị
thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
III. PHÁT HUY THÀNH TỰU 55 THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH, QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI MỤC TIÊU PHÁT
TRIỂN ĐẤT NƯỚC ĐẾN NĂM 2025 VÀ NĂM 2030, XÂY DỰNG MỘT
NƯỚC VIỆT NAM NGÀY CÀNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH, VĂN HIẾN VÀ
ANH HÙNG
1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước
Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết
quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam
và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận
dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Đại hội XIV của Đảng là một dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển
của đất nước ta, dân tộc ta, có ý nghĩa định hướng tương lai; tiếp tục kiên định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc
đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phấn đấu mục tiêu đến năm 2030, kỷ niệm 100
năm thành lập Đảng: Nước ta sẽ là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại,
thu nhập trung bình cao.
2. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, đề cao trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong thời gian tới cần phải được
triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền
và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng
và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường
xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế
kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương
châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật
pháp, cơ chế, chính sách để "không thể, không dám, không muốn tham nhũng".
3. Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước
Các văn kiện của Đảng, nhất là nghị quyết từ Đại hội Đảng lần thứ IX đến lần
thứ XIII đều khẳng định văn hóa là nền tảng xã hội, xác định “Xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và
xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Văn hóa được xác định “là hồn
cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng về văn hóa và chỉ đạo của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, các cấp ủy đảng, chính quyền
cần quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, để văn hóa phát triển
hài hòa và ngang tầm với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; kế thừa và phát
huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những giá
trị tinh hoa của nhân loại, làm cho nền văn hóa Việt Nam vừa giữ được cốt cách, bản
sắc và “chất văn hóa” của truyền thống dân tộc, vừa bắt nhịp được với hơi thở của
cuộc sống hiện đại, phù hợp với trình độ khoa học và trình độ văn minh mà nhân
loại, hướng đến chân - thiện - mỹ, vì sự hoàn thiện nhân cách và xây dựng con người
Việt Nam.
4. Chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh
niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII nêu rõ: “giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi
dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với
đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn
luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm
mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi
nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy
vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Cấp ủy, chính
quyền, các tổ chức cơ sở Đoàn tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò xung kích,
sáng tạo của đoàn viên, thanh niên, sinh viên, tạo môi trường thuận lợi để thế hệ trẻ
trải nghiệm, tự rèn luyện mình, trưởng thành, phấn đấu, bổ sung lực lượng trẻ cho
Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lựa chọn.
5. Tăng cường đoàn kết quốc tế, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, nâng cao vị
thế Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy truyền
thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh
hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại. Nắm chắc những quan điểm
mới về ngoại giao nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng là: Ngoại
giao là một “mặt trận”, giữ vai trò “tiên phong”, tạo dựng môi trường quốc tế thuận
lợi để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam; ngăn ngừa
nguy cơ xung đột, chiến tranh, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”.
Trong thời gian tới, trước tình hình thế giới có nhiều biến động khó lường,
chúng ta cần chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không
được chủ quan, không để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng theo
đúng tinh thần là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ. Phát huy hiệu quả
sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động, tích cực, làm sâu sắc,
thực chất hơn nữa quan hệ với các đối tác; đẩy mạnh đối ngoại đa phương; giữ vững
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy
lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết. Triển khai thực hiện có hiệu quả các
hiệp định thương mại đã ký kết, tranh thủ tối đa lợi ích mà các hiệp định này có thể
đem lại.
* * *
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiếp tục hướng tới kỷ niệm 100 năm
Ngày thành lập Đảng, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mục tiêu:
phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng đất nước
Việt Nam ta ngày càng "cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc", vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Kỷ niệm 55 năm ngày Bác đi xa là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức
đảng tự soi rọi lại mình; phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh
lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân "xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" như ý nguyện của Người.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG